-
-
-
Tổng tiền thanh toán:
-
VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT LÀ MỘT VỊ PHẬT BIỂU TRƯNG CHO TRÍ TUỆ
Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là vị Phật tượng trưng cho trí tuệ. Trong Phật pháp, Ngài là vị Phật với sự hiểu biết trí tuệ viên mãn. Thời đại ngày nay, tất cả mọi người kể cả những người lớn tuổi, những người đã trưởng thành, những doanh nhân, tất cả các ngành nghề chúng ta đều cần trí tuệ. Bởi có trí tuệ chúng ta mới có thể hướng cuộc đời mình đi đúng lối, có trí tuệ chúng ta mới có thể sống cuộc đời hạnh phúc và bình an.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Manjushri – Manjusri) là Bồ Tát đại diện cho trí tuệ của chư Phật, cùng với Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara) và Đại Thế Chí Bồ Tát (Bồ Tát Kim Cương Thủ trong Tây Tạng – Vajrapani), là một trong ba vị Đại bồ tát.
Qua kinh sách thuộc truyền thống Đại thừa ta được biết mỗi vị Phật thường có hai vị Bồ tát làm thị giả. Nếu như Đức Phật A Di Đà có Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí làm thị giả thì một trong hai vị thị giả chính của Đức Phật Thích Ca là Văn Thù Sư Lợi, đại biểu cho trí tuệ siêu việt. Bồ Tát Văn Thù đã xuất hiện hầu như trong tất cả các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa: Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật,… như là một nhân vật thân cận nhất của Đức Phật Thích Ca, khi thì chính thức thay mặt Đức Thế Tôn diễn nói Chánh pháp, có lúc lại đóng vai tuồng làm người điều hành chương trình để giới thiệu đến thính chúng một thời pháp quan trọng của Đức Bổn Sư. Vì vai trò đặc biệt quan trọng đó mà Bồ Tát Văn Thù đã được tôn xưng là vị Pháp Vương Tử, và hình ảnh của Ngài không những đã rất quen thuộc, gần gũi với quần chúng Phật tử theo truyền thống Đại thừa cổ điển từ Ấn Độ đến Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Tây Tạng, Việt Nam,… trong suốt gần hai thiên niên kỷ qua mà ngay cả với những truyền thống Đại thừa hiện đại của Tây phương. Phật tử hành giả các nước ngày nay hoặc tụng niệm danh hiệu của Ngài hoặc dùng hình ảnh của Ngài như là một đối tượng quán chiếu, xem đó như là một trong những phương pháp hành trì tu tập hiệu quả nhất nhằm đạt đến tuệ giác.
Biểu Tượng
Theo truyền thuyết, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi có nhiệm vụ chinh phục Yama, chúa tể của cái chết. Người ta nói rằng trong một cơn thịnh nộ Yama đe dọa sẽ tiêu diệt tất cả những người Tây Tạng. Người dân Tây Tạng, với hy vọng cứu vãn đất nước họ, đã kêu gọi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo vệ họ khỏi cơn thịnh nộ của Yama.
Bồ tát sau đó được cho là đã đi đến địa ngục để tìm kiếm và thuần hoá Yama. Khi gặp Yama, Bồ tát đã hoá thành hình thức Yamantaka. Yamantaka mang hình dạng giống như Yama, với tám đầu và rất nhiều chân. Mỗi đầu và chi được cho là đại diện cho sự huy động toàn bộ sức mạnh giác ngộ của một người cần để đối đầu với cái chết. Để đối đầu với cái chết, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đã thể hiện cái chết, nhưng ở mức độ to lớn hơn.
Yama đã sợ hãi với phiên bản phóng đại của mình và do đó hắn đã bị đánh bại. Bởi vì truyền thuyết này, thông qua hình ảnh của Yamantaka, nhiều người mong muốn phát triển một ý chí mạnh mẽ để đối mặt với cái chết, không còn sợ hãi hay trốn tránh nữa. Sự khôn ngoan của giác ngộ đã làm giảm bớt sự sợ hãi này.
Một sự tích khác về Bồ tát Văn Thù Sư Lợi là truyền thuyết về sự ra đời của Ngài. Người ta nói rằng Đức Phật đã tạo ra một tia vàng phát ra từ đầu. Tia này xuyên qua một gốc cây gần đó, và từ cây nở ra hoa sen, trong đó trung tâm Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đã được sinh ra. Bởi vì Ngài được sinh ra khi không có mẹ và cha, nên Ngài được coi là không bị ô nhiễm bởi thế giới chung quanh.
Ngày xưa, có một người đàn bà góa chồng, không biết quê quán ở đâu, rất nghèo nàn đói lạnh, nhưng về phụ hạnh vẹn toàn, khiến hàng phụ nữ và đấng nam nhân, ai ai cũng đều kính phục.
Nàng nghe thiên hạ đồn rằng: Có một ngôi chùa kia do một vị sư trú trì, hợp lực cùng mấy nhà từ thiện kiến lập trai đàn. Mục đích là cầu an cho bá tánh và bố thí gạo vải cho dân nghèo. Nghe tin ấy, nàng rất vui mừng, bèn bồng hai đứa con và dắt con chó đến chùa để xin bố thí.
Đến nơi, nàng thấy trai đàn trang nghiêm thanh tịnh, đèn thắp sáng choang, khói trầm nghi ngút, những nhà giàu sang thì đang đem tiền của cho người nghèo khổ, thuốc thang tặng cho những người đau ốm bệnh hoạn.
Nàng đứng xớ rớ trong đám người đi xem trai đàn, mà trong lòng thì tự nghĩ: Người ta giàu có, tiền của dư giả, đem ra làm chay làm phước để cầu phước báu về sau. Còn mình thì phước mỏng nghiệp dày, thiếu thốn đói khát, há mình không tìm được một cách gì để bố thí làm lành như những người giàu sang kia được?
Nghĩ như vậy rồi, nàng liền tự hớt đầu tóc của mình, đem vào dâng cho vị trú trì để làm vật bố thí.
Khi ấy chưa đến giờ thọ trai, Tăng chúng và thiện nam tín nữ còn đang hành lễ.
– Bạch thầy, phận tôi cơ hàn, chồng thì đã chết, để lại cho tôi hai đứa con nhỏ đây, và một đứa con ở trong bụng. Thế mà người thân chẳng có, gia sản cũng không, nên tấm tân phải vất vả, nay đầu làng mai cuối chợ, ăn nhờ hột cơm dư của quần chúng. Nay tôi đến đây, xin thầy từ bi bố thí cho mấy mẹ con tôi một ít cơm chay để đỡ lòng, mẹ con tôi còn đi xin nơi khác.
Vị trú trì nghe vậy, liền sai ông đạo nhỏ chạy xuống nhà bếp đơm cho nàng ba bát cơm thật đầy. Vị trú trì tưởng cho như vậy là đủ.
Ai dè, người đàn bà nhìn ba bát cơm một hồi, rồi thưa:
– Bạch thầy, thầy từ bi cho thêm một bát cơm nữa, đặng cho phần con chó.
Vị trụ trì nghe nàng nói như vậy, thì trong lòng đã hơi giận rồi, nhưng cũng ráng dằn lòng xuống và bảo người đi xúc cho con chó một bát cơm nữa cho êm chuyện.
Nào ngờ, người đàn bà tiếp lấy bát cơm, lại thưa tiếp rằng:
– Bạch thầy! Đứa nhỏ mà tôi đang mang trong bụng đây. Thiết nghĩ thầy cũng nên hoan hỷ cho nó một bát cơm nữa mới đúng!
Vị trủ trì nghe nói như vậy nổi xung, liền lớn tiếng:
– Kiếp trước nàng ôm lòng bỏn xẻn, không biết bố thí làm nhân, nên nay mới chiêu cảm cái thân bần nữ như thế, lại góa bụa không chồng, sống ăn nhờ của dân chúng, chết chẳng ích gì cho quê hương; vậy mà không biết thân, còn muốn ăn tham của Tăng chúng nữa. Vả lại xưa nay, có ai thấy những đứa nhỏ còn ở trong bụng mẹ mà người ta cho nó ăn cơm bao giờ, mà nàng đòi xin một cách trái đời như vậy! Thôi hãy đi chỗ khác, chớ đừng nói chuyện dây dưa mà làm trễ giờ của bần Tăng lễ Phật.
Câu nói của vị trú trì vừa dứt, thì năm sắc mây màu kết lại, rực rỡ trên hư không; rồi người bần nữ ấy hiện ra chân tướng của đức Văn Thù, cưỡi con sư tử rất hùng tráng oai nghiêm, hai bên thì có Thiện Tài và Ưu Điền Vương đứng hầu,làm cho ai nấy trông thấy đều hoảng kinh và cúi đầu đảnh lễ.
Đức Văn Thù liền đọc bài kệ:
Bầu đắng, đắng tận gốc, Dưa ngọt, ngọt cùng dây
Ta đã siêu tam giới, Còn bị chư Tăng rầy!
Khi đọc bốn câu kệ rồi, thì đức Văn Thù liền ẩn thân năm sắc mây lành lần lần tan biến.
Thấy vậy, vị trú trì thất thần biến sắc, mở hai con mắt nhìn trân trân, một chặp lâu mới định trí lại, và tự trách mình rằng: Tiếc bấy lâu nay tu hành, ăn cơm Phật, nhận mình đã vào cửa vô vi, mà lòng từ bi còn kém, đức nhẫn nhục chưa tròn, đến nỗi không thấy chơn Thánh như vậy, thì ta còn để đôi mắt làm chi?
Vị trú trì tự trách rồi, liền với tay lên muốn lấy con dao nhỏ để khoét đôi mắt,mọi người lật đật xúm lại giựt con dao và khuyên giải một hồi, thì ngài mới bớt lòng buồn rầu ân hận. Sau đó vị trú trì đắp y hậu đến trước Phật đài, chí thành đảnh lễ Tam Bảo để thành tâm sám hối.
Từ đó về sau, đối với mọi người, vị trú trì giữ được tâm từ bi bình đẳng để tiếp đãi, không còn phân biệt giàu nghèo, sang hèn nữa…
Còn đầu tóc của đức Văn Thù thị hiện bố thí đó. Thì nhà chùa xây dựng một ngôi tháp ngay chỗ Bồ Tát thị hiện xin cơm để tôn thờ, và hằng ngày chiêm ngưỡng cúng dường.
OM AH RA PA TSA NA DHI – OM A RA PA CA NA DHIH
Chúng ta quán tưởng ở luân xa tim là một đĩa mặt trăng và ở trung tâm của nó là từ Dhih thẳng đứng. Xung quanh là những âm tiết Om A Ra Pa Ca Na theo chiều kim đồng hồ.Ánh sáng phát ra từ Dhih và các âm tiết thần chú sẽ lấp đầy cơ thể của bạn và làm sạch tất cả các nghiệp xấu, xoá bỏ những ảo tưởng phát sinh từ vô minh. Bóng tối của sự thiếu hiểu biết sẽ bị đẩy lùi bởi ánh sáng của trí tuệ hoàn hảo, chiếu sáng tất cả các sự vật hiện tượng. Om A Ra Pa Ca Na Dhih là một trong những thần chú Phật giáo được sử dụng rất nhiều trong các thực hành thiền định của người Tây Tạng. Thần chú Bồ tát Văn Thù Sư Lợi tượng trưng cho trí tuệ, sự khôn ngoan siêu việt, một yếu tố quan trọng giúp chúng ta vững bước trên con đường giác ngộ.
Thần chú OM AH RA PA TSA NA DHI nên được niệm nhiều lần trong ngày. Nếu bạn niệm thần chú hàng ngày, thực sự tập trung, thì trí tuệ của bạn có thể cải thiện trong vòng một tháng. Trong một tháng, bạn có thể cảm nhận sự khác biệt về trí thông minh của mình, vì lúc đó trí tuệ của bạn thực sự mở rộng. Đây là thần chú vĩ đại của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
1. Công đức tôi cúng dường Phật Tăng và những hạnh nghiệp tu tập thanh tịnh của tôi đó, nay xin hồi hướng về đạo Vô thượng Bồ đề, nguyện trải hằng sa kiếp tu hạnh Bồ tát, đặng hóa độ chúng sanh, chớ tôi chẳng vì lợi ích một mình mà cầu mau chứng đạo quả.
2. Tôi nguyện hóa độ hết thảy mọi loài chúng sanh ở các thế giới trong mười phương đều phát tâm cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, giữ gìn tâm Bồ đề cho bền chắc, và khuyến hóa theo môn Lục độ.
3. Tôi nguyện giáo hóa vô số chúng sanh ở các thế giới đều đặng thành Phật thuyết pháp trước tôi, và trong khi thuyết pháp, làm sao cho tôi đều xem thấy tất cả.
4. Tôi nguyện trong khi tu đạo Bồ tát đạo, làm đặng vô lượng việc Phật, và sanh ra đời nào cũng tu theo đạo ấy cả.
5. Bao nhiêu chúng sanh của tôi dạy dỗ đều đặng thanh tịnh, như các người đã có tu phép thiền định ở cõi Phạm Thiên, tâm ý không còn điên đảo. Nếu đặng các kẻ chúng sanh như vậy sanh về cõi tôi, thì khi ấy tôi mới thành đạo.
6. Tôi nguyện đem các món hạnh nguyện mà cầu đặng cõi Phật trang nghiêm và nguyên hết thảy các cõi Phật đều hiệp chung lại thành một thế giới của tôi.
Đường giới hạn xung quanh trong cõi ấy đều dùng những chất : vàng, bạc, ngọc lưu li, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não, mà xây đắp cho cao lên đến cõi Phạm Thiên, còn mặt đất thì toàn là ngọc lưu ly tất cả.
7. Trong cõi ấy không có các món đất cát, buị bặm, chông gai, dơ dáy, và không có những sự cảm xúc, thô ác, và xấu xa, cũng không có những người đàn bà và tên hiệu của người đàn bà.
Hết thảy chúng sanh đều hóa sanh, chớ không phải bào thai trong bụng mẹ như các cõi khác, và hằng tu tập các pháp thiền định, vui đẹp tự nhiên, chớ không cần phải ăn uống những đồ vật chất.
8. Trong cõi tôi không có người Tiểu thừa, Thanh văn và Duyên giác. Thảy đều là các bực Bồ tát, căn tánh cao thượng, tâm trí sáng suốt, người nào cũng đã xa lìa mọi sự tham lam, hờn giận, ngu si, và đã tu đặng các môn phạm hạnh cả.
9. Trong khi chúng sanh sanh về cõi tôi, thì tự nhiên đủ tướng mạo Tỳ khưu, đều có cạo tóc và đắp y một cách chỉnh đốn cả.
10. Chúng sanh trong cõi tôi muốn ăn, thì tự nhiên có bình bát thất bảo cầm ở nơi tay và đủ các món đồ ăn ngon đẹp đầy bát. Khi ấy lại nghĩ rằng : Chúng ta chớ nên dùng những đồ này, nguyện đem bố thí ; trước hết dâng cúng cho các Đức Phật, Bồ tát, Thanh văn, và Duyên giác, sau nữa thì chúng sanh nghèo hèn và các loài Ngạ quỉ đói khát đêu dùng no đủ. Còn phần chúng đẹp, tức là món ăn.
11. Mọi người suy nghĩ như vậy, liền đặng pháp Tam muội, gọi là “Bất khả tư nghị hạnh”. Có sức thần thông, dạo đi tự tại, không có sự gì ngăn ngại tất cả. Độ trong giây phút, mọi người được dạo khắp các thế giới mà cúng dường Phật, bố thí và diễn thuyết các pháp cho chúng sanh nghe rồi trở về nước thì vừa đúng bữa ăn.
12. Tôi nguyện trong thế giới của tôi không có tám món chướng nạn và các sự khổ não, cũng không có những người phá hư giới luật.
13. Tôi nguyện trong thế giới ấy có nhiều món châu báu rất lạ lùng và không cần gì phải dùng đến ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Các vì Bồ tát tự nhiên xung quanh thân thể có hào quang sáng chói, soi khắp các nơi, thường chiếu luôn không có ngày đêm, chỉ xem lúc nào bông nở thì cho là ban ngày, lúc nào bông xếp lại cho là ban đêm mà thôi. Còn khí hậu thường điều hòa, không nóng quá và không lạnh quá.
14. Nếu có vị Bồ tát nào bỏ xứ làm Phật các cõi khác, thì trước hết ở nơi cõi tôi, rồi đến cung trời Đâu suất, sau mới giáng sanh đến cõi ấy.
15. Tôi nguyện hóa độ chúng sanh đều thành Phật hết rồi, tôi mới hiện lên hư không mà nhập diệt.
16. Trong lúc tôi nhập diệt thì có nhiều món âm nhạc tự nhiên kêu vang đủ pháp mầu nhiệm và các vị Bồ tát nghe đều tỏ đặng các lẽ huyền diệu.
17. Thưa Đức Thế Tôn ! Tôi nguyên khi làm Bồ tát mà dạo trong các cõi Phật, xem thấy những thức trang nghiêm những châu báu, những hình trạng, những xứ sở, và những hạnh nguyện của Chư Phật, thì tôi đều cầu đặng thành tựu tất cả.
18. Tôi nguyện các vị Đẳng giác Bồ tát đều ở trong cõi tôi mà đợi đến thời kỳ sẽ bổ xứ làm Phật, chớ không thọ sanh các cõi nào khác nữa. Nếu có vị nào muốn đến cõi khác thành Phật mà hóa độ chúng sanh, thì tùy theo ý nguyện.
19. Thưa Đức Thế Tôn ! Trong khi tôi tu đạo Bồ tát, nguyện đặng cõi Phật rất tốt đẹp nhiệm mầu. Các vị Bồ tát phát Bồ đề tâm, tu Bồ tát hạnh, mà đặng dự bổ xứ thành Phật, đều sanh về trong cõi tôi cả.
20. Thưa Đức Thế Tôn ! Tôi nguyện đặng như vậy, tôi mới thành Phật, và nguyện ngồi khoanh chân trên tọa Kim cang ở dưới cây Bồ đề, trong giây lát chứng thành chánh giác.
21. Khi thành Phật rồi, tôi biến hóa Phật và các vị Bồ tát, nhiều như số cát sông Hằng, đặng dạo các thế giới mà hóa độ chúng sanh, giảng dạy các phép nhiệm mầu và khiến cho hết thảy nghe pháp rồi đều phát Bồ đề tâm, cho đến khi thành đạo cũng không đổi dời tâm trí.
22. Khi tôi thành Phật rồi, chúng sanh ở trong các cõi nếu thấy đặng tướng tốt của tôi, hằng in nhớ trong tâm luôn luôn, cho đến khi thành đạo cũng không quên.
23. Tôi nguyện chúng sanh trong cõi tôi, người nào cũng đủ căn thân toàn vẹn, không hề thiếu món gì. Nếu các vị Bồ tát muốn xem thấy tướng tôi, hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, thì đều thấy đặng cả. Khi thấy rồi, liền phát Bồ đề tâm, và lại trong lúc thấy tôi, những sự hoài nghi về đạo pháp tự nhiên đều biến đặng cả, không cần phải đợi tôi giải quyết nữa.
24. Tôi nguyện khi tôi thành Phật rồi, thì tôi đặng thọ mạng vô cùng vô tận, không kể xiết. Còn các vị Bồ tát trong cõi tôi cũng đặng sống lâu như vậy.
25. Trong lúc tôi thành Phật, có vô số Bồ tát đủ tướng mạo Tỳ khưu, người nào cũng cạo đầu, đắp y, cho đến khi nhập Niết bàn thì những tóc không khi nào để mọc dài, và những y cũng không khi nào đổi bận như đồ người thế tục.